Đặc điểm nhận biết sâu bệnh hại trên cây có múi và phương pháp phòng trừ
1. Sâu vẽ bùa (Phyllocnistis citrella)
A -Đặc điểm nhận dạng:
Trưởng thành: Có kích thước nhỏ bé, thân mảnh khảnh dài 2mm. Chân màu vàng nhạt pha màu trắng bạc. Cánh trước hình lá liễu, phần gốc cánh trước tối màu hơn phần ngọn cánh, ngọn cánh có điểm màu đen lớn. Lông viền mép cánh dài, màu tro. Cánh sau hẹp hình kim, màu xám đen, lông mép cánh rất dài.
Trứng: có hình gần tròn, dẹt, phẳng, giống giọt nước nhỏ. Mới đẻ màu trong suốt, sắp nở màu trắng đục.
Sâu non: dạng dòi, không có chân, màu xanh vàng hoặc xanh nhạt, mới nở có màu xanh nhạt trong suốt, sâu non đẫy sức có màu vàng dài khoảng4mm.
Nhộng: Hình thoi, màu vàng nhạt hoặc nâu đậm, dài khoảng 2.5mm.
b -Tập tính sinh sống và gây hại:
Trưởng thành hoạt động ban đêm, ban ngày đậu trong tán lá, giao phối lúc chập tối. Trưởng thàh cái đẻ trứng rải rác ở mặt dưới lá non, sát gân lá chính chứng nở ra sâu non, sâu non đục vào biểu bì mặt dưới lá tạo thành đường hầm ngoằn ngoèo. Sâu non chủ yếu gây hại ở lá non
Sâu phá hoại ở tất cả các tháng trong năm, mạnh nhất từ tháng 2 – 10.
Nếu bị sâu vẽ bùa cây quang hợp kém gây ảnh hưởng đến sức sinh trưởng đồng thời tạo ra những vết thương cơ giới, là cơ hội để bệnh loét xâm nhập.
c- Biện pháp phòng, trừ:
– Phòng chống: Bón phân cân đối, tưới nước, chăm sóc hợp lý để cho cây ra lộc tập trung.
Tỉa cành, tạo tán cho thông thoáng để tránh ẩm độ cao.
Bảo vệ thiên địch tự nhiên, nuói kiến vàng
-Phun thuốc trừ sâu: Phun thuốc phòng 1 – 2 lần trong mỗi đợt cây có lộc non, hiệu quả nhất lúc lộc non dài từ <1cm.
Khi chồi non dài <1cm phun lần 1, sau phun lần một 6, 7 ngày thì phun lần 2.
Phun dầu khoáng hoặc dùng thuốc Motsuper 36WG pha 5g trên 1 bình 10 lít, hoặc Supergun 600EC hoặc chatot 600WG pha nồng độ theo khuyến cáo của nhà sản xuất để phòng trừ.
Chú ý: Phun thuốc phải ướt đều hai mặt lá.
Sâu vẽ bùa (ảnh ngoài cùng, dưới, bên phải) và triệu chứng gây hại của sâu vẽ bùa
2. Rầy chổng cánh (Diaphorina citri)
a-Đặc điểm nhận dạng:
Trưởng thành: có thân dài 2,5 – 3,0mm kể cả cánh, màu xám tro, đình đầu nhọn nhô về phía trước, mắt có màu đỏ. Chân có màu xám nâu. Cánh cùng màu với cơ thể, nhưng có các đốm đen.
Ấu trùng: mới nở có hình tròn dài màu vàng tối, mắt kép đỏ. Ấu trùng tuổi lớn dẹt mỏng, màu vàng đất hơi xanh, có các đốm màu đen.
b-Tập tính sinh sống và gây hại:
Trưởng thành khi đậu thường chúc đầu và cánh chổng cao hơn phần đầu, thường đậu ở các đọt non để chích hút nhựa cây, ít bay và thường bay gần, ấu trùng di chuyển chậm chạp, sống tập trung ở đọt và lá non
Ấu trùng và thành trùng chích hút dinh dưỡng của lá và đọt non làm cho đọt non lụi dần, sần sùi, lá non bị hại phiến lá nhỏ và xoăn làm ảnh hưởng đến sự phát triển của cây và sự ra quả. Thời gian xuất hiện từ tháng 2 đến tháng 11 mật độ quần thể cao thường trùng vào các đợt lộc của cây ăn quả có múi.
c- Biện pháp phòng, trừ:
Phòng chống: Không nên trồng các cây cảnh thuộc họ cam quýt gần các vườn cam quýt.
Cắt tỉa cành taọ bộ khung thông thoáng, ẩm độ thấp.
Bón phân cân đối, tưới nước hợp lý, điều khiển cho cây ra các đợt lộc tập trung để hạn chế sự phát triển và gây hại của rầy chổng cánh.
Nhổ bỏ những cây bị bệnh vàng lá Greening trong vườn đem tiêu hủy để giảm nguồn bệnh lây lan sang những cây khỏe.
Bảo vệ và tạo điều kiện cho các loài thiên địch trong vườn phát triển.
Phun thuốc trừ: Khi dầy xuất hiện phun thuốc trừ lúc cây ra đọt non tập trung, có thể dùng các loại thuốc: Supergun 600E, Motsuper 36WG hoặc dầu khoáng .
Chú ý : Phun thuốc phải ướt đều cả hai mặt của lá.
Rầy chổng cánh (ảnh ngoài cùng, trên, bên trái) và các triệu chứng gây hại
Bọ xít xanh (Rhynchocoris humeralis)
a-Đặc điểm nhận dạng:
Trưởng thành: Có hình ngũ giác màu xanh lá cây, bóng và dài khoảng 21-23mm, có hai gai nhọn ở phía trước hai bên ngực, hai bên mép bụng có rìa hình răng cưa, vòi chích hút dài đến cuối bụng.
Trứng: hình tròn, đường kính 1mm, lúc mới đẻ có màu trắng trong, xanh lam, sau đó chuyển sang màu trắng đục, sắp nở có màu nâu sẫm hơn mặt trứng có nhiều chấm lõm.
b-Tập tính sinh sống và gây hại
Bọ xít xanh thường hoạt động vào lúc sáng sớm hay chiều mát, khi trời nắng gắt chúng ẩn dưới tán lá.
Ấu trùng (bọ xít non) khi mới nở dài khoảng 2-3 mm, thường sống tập trung xung quanh ổ trứng, sau đó phân tán dần để chích hút dịch trái. Cơ thể của ấu trùng có hình bầu dục, màu nâu vàng hoặc xanh lục, trên lưng có nhiều đốm màu đỏ, đen, xung quanh mặt lưng có một hàng chấm đen xếp theo hình bầu dục.
Cả con trưởng thành và con ấu trùng, đều dùng vòi để chích hút dịch trái từ khi trái còn rất nhỏ. Chỗ vết chích có một chấm nhỏ và một quầng màu nâu. Nếu trái còn nhỏ đã bị bọ chích hút nhiều thì trái sẽ vàng, chai và rụng sớm. Nếu trái đã lớn mới bị bọ gây hại thì trái dễ bị thối rồi rụng. Một con có thể chích hút gây hại nhiều trái.
c- Biện pháp phòng, trừ:
Không nên trồng cam quýt quá dầy, thường xuyên cắt tia cành tạo tán, cắt bỏ cành bị sâu bệnh, cành tược… để vườn cây luôn thông thoáng, hạn chế nơi trú ngụ của bọ xít.
Thu thập và nhử nuôi kiến vàng trong vườn cam quýt để kiến tiêu diệt bọ xít, nhất là bọ xít non.
Dùng vợt tay để bắt bọ xít vào lúc sáng sớm hay chiều mát.
Thường xuyên kiểm tra trái và những lá gần trái để phát hiện và thu gom ổ trứng của chúng đem tiêu hủy.
Nếu vườn cam quýt rộng, bọ xít nhiều không thể bắt bằng vợt tay, có thể sử dụng một trong những loại thuốc như: Kampon 600WP, Supergun 600EC, Motsuper 36WG ,Dầu khoáng SK… để phun xịt.
3. Nhện đỏ Panonychus citri
Nhện đỏ là loài đa ký chủ có vòng đời ngắn (10-15 ngày) nên mật số tăng rất nhanh nhất là trong điều kiện khô hạn. Chúng có thể gây hại trên nhiều bộ phận của cây:
– Trên lá, khi bị gây hại sẽ có những chấm nhỏ li ti, khi bị nặng, vết chấm lan rộng, lá có màu ánh bạc hoặc vàng, biến dạng… sau đó có thể bị khô và rụng. Khi mật số nhện cao, cành non cũng bị làm cho khô và chết
Trên trái, nhện thường sống tập trung ở phần lõm (cuống trái, đáy trái). Nhện chích hút dịch ở lớp biểu bì trái non làm vỏ trái bị biến màu và các vết thương khô lại tạo nên những vết sần sùi gọi là da lu, da cám…ảnh hưởng đến mẫu mã của trái.
Biện pháp quản lý nhện đỏ Panonychus citri
– Không nên trồng quá dầy làm cho vườn cây bị um tùm rậm rập, không thông thoáng, tán bị che phủ nhiều.
– Bón phân dứt điểm thành từng đợt và phải bón cân đối giữa đạm, lân và kali. Nếu vườn bị nhện gây hại nhiều thì nên tăng cường bón thêm phân lân và kali.
– Tỉa bỏ những cành, lá không cần thiết bên trong tán cây để tán cây luôn luôn được thông thoáng.
– Nếu vườn cây thường bị nhện gây hại nặng thì cứ mỗi đợt cây ra đọt, lá non nên phun xịt 3 lần thuốc trừ nhện: lần 1 khi cây vừa nhú đọt non, lần 2 khi đọt non ra rộ và lần 3 khi lá non bước sang giai đoạn bánh tẻ. Khi cây đã bước vào giai đoạn cho trái thì cứ mỗi một đợt ra bông kết trái bạn cũng nên phun xịt ba lần thuốc: lần 1 lúc nụ hoa ra rộ, lần 2 sau khi tượng trái rộ khoảng 1 tuần và lần 3 cách lần 2 khoảng 10 ngày.
– Trong tự nhiên, nhện đỏ có rất nhiều thiên địch tấn công, do vậy cần sử dụng thuốc BVTV hợp lý để bảo vệ thiên địch. Tưới nước đầy đủ trong mùa nắng để làm tăng ẩm độ vườn. Chú ý khi dùng thuốc cần luân phiên thuốc để tránh nhện hại nhờn thuốc. Có thể dùng các loại thuốc như Comite, Pegasus, Kelthane, Ortus, Nissorun, dầu khoáng DC- Tron Plus Dimenat, Dầu SK Enspray 99, Saipromite, Sulox, Comite, Ortus theo liều lượng khuyến cáo vào giai đoạn cây mang trái non.
4. Bệnh loét
Nguyên nhân: Do vi khuẩn Xanthomomas campestris pv. citri (Hasse) Dye.
Triệu chứng:
– Vết bệnh xuất hiện ở mặt trên và mặt dưới của lá, lúc đầu nhỏ, sũng ướt, màu xanh tối, sau đó biến thành màu nâu nhạt, mọc nhô lên trên mặt lá hay vỏ trái. Kích thước vết bệnh thay đổi tuỳ theo loại cây, từ 1-2 mm trên quít, 3-5 mm trên cam mật và hơn 10 mm trên cam sành, bưởi. Xung quanh vết bệnh trên lá có quầng màu vàng lớn nhỏ tuỳ loại cây, bề mặt vết bệnh sần sùi.
– Trên quả, vết bệnh tương tự như trên lá nhưng khó thấy quầng vàng xung quanh. Bệnh nặng các vết bệnh liên kết lại với nhau thành từ mãng lớn và bất dạng, đặc biệt là bệnh nhiễm theo các vết đục của sâu vẽ bùa.
– Bệnh gây hại ở vỏ trái làm giảm giá trị thương phẩm, phần thịt của múi trái có thể bị chai, trong điều kiện ẩm độ cao trái bệnh bị nứt chảy nhựa cuối cùng trái vàng và rụng đi. Cành non cũng thường bị nhiễm nặng, các đốm sần sùi đóng dày đặc làm khô chết cành .
Phát sinh gây hại:
– Vi khuẩn có thể xâm nhiễm qua vết thương hay khí khổng ở các bộ phận của cây. Các cành, lá, quả non thường bị nhiễm qua khí khổng khi có sương hay mưa làm ướt vết bệnh, vi khuẩn trong vết bệnh sẽ ứa ra và từ đó gió, nước mưa, côn trùng (sâu vẽ bùa) sẽ làm lây lan bệnh.
Biện pháp phòng trừ
– Vườn trồng cây ăn quả cần có hệ thống thoát nước tốt, không trồng cây giống bị nhiễm bệnh và không trồng quá dày để tạo thông thoáng cho vườn. Cắt và thu gom cành, lá, quả bị bệnh đem tiêu hủy nguồn bệnh. Những vườn bị bệnh không tưới nước lên tán cây vào buổi chiều mát, không tưới thừa nước. Đốn tỉa tạo tán định kỳ để vườn không bị rậm rạp. Tránh tạo vết thương cơ giới cho vi khuẩn xâm nhập.
– Bón phân cân đối NPK. Tăng cường bón thêm phân kali cho vườn cây đang bị bệnh, không bón đạm và phân bón lá khi bệnh đang phát triển gây hại.
– Phòng chống sâu vẽ bùa bằng dầu khoáng SK Enspray 99EC và thuốc hóa học.
– Phun phòng vào lúc mới ra lộc hoặc khi bệnh bắt đầu xuất hiện. Khi bệnh nặng có thể phun 2 – 4 lần, mỗi lần cách nhau 10 – 15 ngày. Sử dụng các loại thuốc gốc đồng như Boocđô 1%, Boocđô + zineb hoặc các loại thuốc có hoạt chất Kasugamycin + copper oxychloride (ví dụ: Kasuran 0,15%, …), Copper hydroxide (ví dụ: champion 37,5SC,…), Copper oxychloride… phun khi cây mới ra lộc, lượng nước phun là 600 – 800 lít/ha.