Cùng với sự phát triển của phân hóa học, những nguồn nguyên liệu hữu cơ sẵn có sẽ được xử lý và lên men theo quy trình công nghiệp để tạo nên phân hữu cơ sinh học có hàm lượng chất dinh dưỡng cao mà không gây tác dụng phụ cho sức khỏe con người. Đây là một hướng đi mới được ưa chuộng ngày một nhiều hơn.
Việt Nam là nước nhiệt đới và là một nước nông nghiệp quanh năm cây trái tốt tươi, cây trồng, vật nuôi khá phong phú. Trong những năm gần đây, ngành trồng trọt của chúng ta phát triển khá mạnh mẽ cả về số lượng và chất lượng. Trên đồng ruộng nương rẫy hàng năm để lại hàng triệu tấn phế thải là rơm rạ, lõi ngô, cây sắn, thân lá thực vật…
Tất cả các nguồn phế thải này một phần đem đốt, còn lại trở thành rác thải, phế thải gây ô nhiễm nghiêm trọng môi trường và nguồn nước, trong khi đất đai lại thiếu nghiêm trọng nguồn dinh dưỡng cho cây và hàng năm chúng ta lại bỏ ra hàng triệu dola để mua phân hóa học nước ngoài.
Ước tính mỗi năm nước ta có hơn 32,2 triệu tấn rơm rạ, 5,2 triệu tấn thân lá ngô sau thu hoạch; 1,5 triệu tấn lá khoai lang; 2,15 tấn thân lá cây lạc; 1,7 triệu tấn ngọn lá sắn… Hàng năm có khoảng 22,203 triệu tấn rơm của miền bắc và 21,007 triệu tấn rơm của miền Nam thu được qua các mùa vụ.
Phụ phẩm nông nghiệp đang được khai thác theo nhiều hướng như: Làm giá để trồng nấm, bổ sung chế phẩm sinh học làm phân hữu cơ, làm chất đốt, làm chất đệm lót hàng, độn chuồng, lót ổ, sản xuất phân hữu cơ, phân vi sinh, năng lượng điện, thức ăn chăn nuôi, vật liệu xây dựng….
Thông thường, các chế phẩm nông nghiệp được người dân tận dụng tối đa để làm chất đốt, làm giá nấm, làm thức ăn gia súc, vật liệu độn chuồng hoặc vùi trở lại đất, do đó khả năng tồn lưu gây ô nhiễm môi trường cũng giảm bớt.
Một số mô hình xử lý phế phẩm nông nghiệp
Việt Nam là nước nông nghiệp nên mỗi năm thải ra khối lượng lớn phế thải nông nghiệp trong đó có phế phẩm nông nghiệp chiếm khối lượng lớn, việc tận dụng nguồn phế phụ phẩm này chưa được quan tâm, chú trọng vì vậy mà tình trạng đốt rơm rạ diễn ra ngày càng phổ biến sau mùa gặt gây ra những ảnh hưởng tiêu cực không hề nhỏ đến môi trường và sức khỏe của người dân.
Việc đốt rơm rạ chẳng những lãng phí nguồn nguyên liệu mà còn gây ô nhiễm môi trường, mất an toàn giao thông. Theo các nhà y học, khói bụi khi đốt rơm rạ làm ô nhiễm không khí, gây tác hại lớn đối với sức khỏe con người. Trẻ em, người già và người có bệnh hô hấp, bệnh mãn tính dễ bị ảnh hưởng nhất.
Vài năm trở lại đây người dân tiếp cận khoa học, học hỏi được nhiều công nghệ có thể tăng thu nhập từ phế phẩm nông nghiệp như: Dùng làm nấm, sản xuất phân hữu cơ, rơm rạ còn có thể dùng làm vật liệu xây dựng, làm bê tông siêu nhẹ, đệm lót vận chuyển hàng hóa dễ vỡ, vận chuyển hoa quả… việc sử dụng rơm rạ cho sản xuất năng lượng gồm nhiên liệu sinh khối rắn; nhiên liệu sinh học; sản xuất bột giấy… là phương pháp tận dụng tối ưu. Song thu gom, vận chuyển là rào cản lớn từ nghiên cứu triển khai đến sản xuất.
1. Bình Giang là huyện trọng điểm lúa của Hải Dương, lượng rơm rạ sau thu hoạch rất lớn. Người ta dùng men vi sinh tạo ra nguồn phân ủ, giảm được một nửa chi phí đầu vào cho nông dân, cải tạo đất, giảm ô nhiễm môi trường, hướng đến một thương hiệu gạo an toàn, chất lượng.
2. Hội làm vườn Vĩnh Phúc phối hợp với công ty TNHH Thái Việt Mỹ sản xuất và ứng dụng thành công loại phân hữu cơ vi sinh học từ các phế phẩm nông nghiệp, góp phần nâng cao năng suất và chất lượng cây trồng, giảm thiểu ô nhiễm môi trường nông thôn. Ứng dụng này được triển khai ở 150 hộ của huyện Mê Linh, Tam Dương, Tam Đảo đại diện cho ba vùng đồng bằng trung du và miền núi.
Nguyên liệu chủ yếu để sản xuất phân hữu cơ vi sinh là phân trâu, bò, lợn, gà, phân xanh, bèo hoa râu, rơm rạ, nước thải chăn nuôi… được phối trộn với phế phẩm Bioplant, tạo ra loại phân hữu cơ vi sinh có thể thay thế phân hóa học. Phân bón hữu cơ vi sinh có chứa 4 nhóm vi sinh vật có ích và chủng loại nấm đối kháng, khi bón vào đất sẽ phân giải các chất hữu cơ, làm tan biến các chất độc hại, giảm thiểu ô nhiễm môi trường đất, nước, không khí.
3. Năm 2007, Viện công nghệ môi trường- Viện Khoa học và công nghệ Việt Nam đã tổ chức mô hình ứng dụng chế phẩm vi sinh vật xử lý phế thải nông nghiệp thành phân bón hữu cơ vi sinh, làm sạch môi trường tại 2 xã Đại Đồng và Kim Xá, huyện Vĩnh Tường ( Vĩnh Phúc), quy mô 20 ha. Trong đó tại thôn Hoàng Tân, Xã Kim Xá xử lý 6ha dây bí đỏ + phân gia súc, gia cầm; xã Đại Đồng xử lý 5 ha phế thải nông nghiệp ( Rơm rạ, phân gia súc, gia cầm)
Kết quả các phế thải nông nghiệp sau khi trộn với chế phẩm vi sinh vật, đem ủ, sau thời gian từ 40-60 ngày đã tạo ra một loại phân bón hữu cơ tốt, không có mùi, sử dụng để bón cho lúa và rau màu vụ đông rất tốt, không có mùi, sử dụng để bón cho lúa và rau màu vụ đông rất tốt, được nông dân hưởng ứng.
4. Tỉnh Đắk Lắc là địa phương có diện tích, sản lượng ngô, cà phê lớn nhất nước, bình quân mỗi năm đạt từ 500.000 tấn ngô hạt., 350.000 – 400.000 tấn cà phê trở lên, nên thải ra môi trường hàng trăm ngàn tấn vỏ ngô, vỏ cà phê gây ô nhiễm môi trường.
Từ năm 2006 trở lại đây, dưới sự hướng dẫn, giúp đỡ của sở Khoa Học Công nghệ tỉnh Đăk Lắc, Trung tâm nghiên cứu Đất – Phân bón môi trường Tây Nguyên về các quy trình sử dụng men vi sinh vật ủ với các phụ phẩm trong sản xuất nông nghiệp như vỏ lõi ngô, vỏ cà phê, rơm, rạ, phân chuồng, phân xanh để sản xuất phân bón hữu cơ vi sinh tiết kiệm chi phí sản xuất, nhưng hiệu quả kinh tế khá cao( Văn Hân, 2009)
5. Ở Bến Tre, gần đây do sản xuất các ngành phát triển nên kéo theo các phế phụ liệu như “mụn dừa, bã mía rơm rạ” thải ra nhiều làm ô nhiễm môi trường ngày càng trầm trọng. Để giải quyết vấn đề trên, một số cơ quan chức năng đã tìm đến Trung tâm sinh học ứng dụng, nhờ chuyển giao cho Bến Tre quy trình trồng và chăm sóc nấm bào ngư trên “mụn dừa, bã mía rơm rạ” rồi làm tiếp nấm rơm – nuôi trùng và sau cùng là phân bón hữu cơ.
Qua thời gian thử nghiệm, kết quả bước đầu cho thấy nông dân có điều kiện , sớm tổ chức sản xuất, có thể làm gia tăng thêm thu nhập, làm giảm bớt nạn ô nhiễm môi trường. Nấm bào ngư ( Nấm sò, nấm dai…) là loại có giá trị rất cao lại có ưu điểm là mọc được trên nhiều loại phế phụ phẩm khác nhau ( Cấu tạo Xenluloza, lognhin)
6. Ở Nghệ An, phần lớn diện tích đất nông nghiệp đã bị suy thoái, xói mòn và mất dần khả năng canh tác. Nguyên nhân chính là do người dân quá lạm dụng các loại phân bón hóa học, thiếu nguồn phân bón hữu cơ bổ xung thường xuyên. Mặt khác, lượng phế thải từ sản xuất nông nghiệp ( rơm rạ, cây xanh…) từ các nhà máy chế biến ( bùn, bã mía…) do không xử lý kịp thời đã gây ô nhiễm môi trường nghiêm trọng.
Quá trình sản xuất phân bón sinh học Compost Market gồm các chủng vi sinh vật: Vi sinh vật phân giải xenlulo; vi sinh vật phân giải lân; vi sinh vật cố định đạm và vi sinh vật hỗ trợ trên nền than bùn có mật độ các chủng vi sinh vật từ 108– 109 CFU/g.
Việc sản xuất vi sinh vật từ phụ phẩm khá đơn giản và dễ thực hiện: xử lý thô nguồn nguyên liệu phế phụ phẩm từ sản xuất nông nghiệp và các nhà máy chế biến phôi trộn với chế phẩm Compost Market và một vài phụ liệu khác như đạm, rỉ mật… độ ẩm cuối cùng của hỗn hợp cần đạt từ 45 – 50%
Ủ hỗn hợp với chiều cao tối đa của đống ủ 0,5m ( nơi ủ có mái che để tránh mưa), sản phẩm phân bón hữu cơ thu được tơi xốp, đạt mật độ các chủng vi sinh vật đưa vào xử lý lớn hơn hoặc bằng 106 CFU/g, không chứa các chủng vi sinh vật gây hại ( Như các loại nấm Fusarium, Aspergillus niger và vi khuẩn gây bệnh héo xanh trên cây họ cà…), hàm lượng nito, kali, photpho hữu hiệu đạt tiêu chuẩn về phân bón.
Chế phẩm Compost Market và phân hữu cơ vi sinh đã rút ngắn thời gian xử lý chế phụ phẩm; nhiệt độ sinh học ủ tăng sau 1-2 ngày và đạt cực đại 45 – 70oC sau 7 – 10 ngày.
Sản phẩm tạo ra các chất giàu cacbon chuyển hóa màu và dễ bị mùn, khử được mùi hôi, an toàn đối với cây trồng, góp phần giảm thiểu ô nhiễm môi trường, tạo ra nền sản xuất nông nghiệp hữu cơ bền vững.
Hiện nay, chế phẩm sinh học đã được triển khai thực hiện trên các mô hình trồng chè ở xã Hùng Sơn ( Huyện Anh Sơn), trồng rau ở xã Quỳnh Liên ( Quỳnh Lưu); Trồng cam ở nông trường Xuân Thành ( Quỳ Hợp)…
7. Tại xã Tân Cương – TP Thái Nguyên, Trường ĐH Nông Lâm đã thực hiện quá trình nghiên cứu sản xuất phân hữu cơ sinh học và vi lượng đất hiếm, bước đầu đánh giá hiệu quả của phân hữu cơ sinh học trên khía cạnh năng suất, chất lượng của cây chè.
Qua khảo nghiệm các hộ trồng chè cho thấy, chỉ sau một thời gian sử dụng phân hữu cơ sinh học, cây chè phát triển tốt, lá chè xanh non, tỷ lệ búp dày,mập, cao, giảm được một số sâu bệnh hại, không ảnh hưởng đến môi trường, sản phẩm sản xuất ra an toàn, chất lượng tốt, trung bình 1 tháng cho thu hoạch 1 lứa, năng suất tăng từ 10 – 15 % so với các loại phân bón khác ( Phạm Văn Ngọc)
Những định hướng phát triển lâu dài trong sản xuất nông nghiệp cũng như bảo vệ môi trường sinh thái đang khuyến khích nông dân chọn lựa phương pháp canh tác sử dụng phân bón hữu cơ thay thế các dòng phân bón hóa học.
Nguồn: chebuptancuong.com
Xem thêm: