Sâu bện hại trên cây bưởi diễn thường phát sinh mạnh vào thời kì mưa nhiều, ẩm độ cao tại khu vực mới canh tác hoặc trên khu vực đã từng có dịch bệnh. Do đó cần chú ý đảm bảo vườn cây thông thoáng dọn dẹp sạch sẽ cỏ dại.
Danh Mục
- Sâu vẽ bùa (Phyllocnistis citriella)
- Sâu đục thân (Chelidonium argentatum), đục cành (Nadezhdiella cantori)
- Nhện hại
- Rệp hại
- Bệnh hại bưởi
- Bệnh loét
- Bệnh sẹo
- Bệnh chảy gôm
- Bệnh Greening
Sâu vẽ bùa (Phyllocnistis citriella):
Sâu vẽ bùa là một loài bọ cánh cứng có màu trắng và đen, tên khoa học là Phyllocnistis citriella. Nó được tìm thấy ở các khu vực nhiệt đới trên toàn thế giới. Bọ sâu vẽ bùa là một trong những loài bọ cánh cứng nguy hại nhất, nhất là nếu nó được phân bố qua một vùng lớn. Nó có thể gây ra thiệt hại lớn đến các cây có liên quan đến cây chanh, cây nho và cây bưởi.
Bọ sâu vẽ bùa là một loài nhỏ, phổ biến trong kích thước từ 1 đến 1,5 mm dài. Có những con có thể lên đến 2mm. Nó có một đuôi ở cuối của cơ thể của nó, và đôi khi có một đuôi dài hơn ở giữa của cơ thể. Màu trắng sẽ bao phủ trên toàn thân của nó, với một số vết đen ở mỗi bên của mặt trên của nó.
Để phát hiện bọ sâu vẽ bùa, bạn cần lưu ý những nốt đen ở mỗi bên và đuôi của nó. Nó thường là một loài khó nhận biết, vì nó có thể rất nhỏ và có màu sắc giống với nền. Nếu bạn nhìn thấy những đặc điểm trên, hãy nhớ rằng nó có thể là một sâu vẽ bùa.
Bọ sâu vẽ bùa là nguy hại vì nó có thể gây ra thiệt hại lớn đến các cây có liên quan đến cây chanh, cây nho và cây bưởi. Nó có thể ăn lụm của các cây đó, làm cho chúng bị hại. Những loài bọ này cũng có thể truyền bệnh qua các cây đó, gây ra thêm thiệt hại. Do đó, hãy nhã cầu bạn cần nhớ rằng khi nhìn thấy bọ sâu vẽ bùa, hãy thông báo cho cơ quan chủ quản để họ có thể xử lý vấn đề.
Sâu đục thân (Chelidonium argentatum), đục cành (Nadezhdiella cantori)
Sâu Đục Thân (Chelidonium argentatum) và Đục Cành (Nadezhdiella cantori) là hai loài thực vật có thể tìm thấy trong môi trường thiên nhiên. Nó là các loài thực vật có thể mọc trong hệ thống thực vật của khu vực đó và có hình dạng khá giống nhau.
Sâu Đục Thân là loài thực vật thân mềm với một cành dài và nhỏ. Nó có thể trụ vào bất kỳ địa điểm nào trong các khu vực hoang dã, bụi rậm, hoặc bất kỳ nơi nào có ít ánh sáng trực tiếp. Sâu Đục Thân có thể phát triển đến một chiều cao là một mét và được trang trí bởi các lá màu xanh xám.
Đục Cành (Nadezhdiella cantori) là một loài thực vật với một chiều cao là một mét và có một cành dài và mềm. Nó cũng có thể mọc trong các khu vực hoang dã, bụi rậm, hoặc bất kỳ nơi nào có ít ánh sáng trực tiếp. Đục Cành được trang trí bởi các lá màu xanh lá cây và có một màu vàng trên các lá.
Cả hai loài thực vật này đều có thể phát triển trong các môi trường đều đặn và có thể tìm thấy ở gần nhau. Tuy nhiên, chúng cũng có một số điểm khác nhau, bao gồm màu lá, kích thước, và sự phát triển. Sâu Đục Thân có màu lá xanh xám và đục cành có màu xanh lá cây và vàng. Sâu Đục Thân cũng lớn hơn so với Đục Cành. Đục Cành cũng phát triển nhanh hơn so với Sâu Đục Thân.
Tổng quan, Sâu Đục Thân và Đục Cành là hai loài thực vật có thể tìm thấy trong các môi trường thiên nhiên và có hình dạng giống nhau. Tuy nhiên, có một số điểm khác nhau giữa hai loài thực vật này, bao gồm màu lá, kích thước, và sự phát triển.
Nhện hại
– Đặc điểm gây hại:
+ Nhện đỏ (Panonychus citri): Phát sinh quanh năm hại lá là chính, chủ yếu vào vụ đông xuân. Nhện đỏ rất nhỏ, màu đỏ thường tụ tập thành những đám nhỏ ở dưới mặt lá, hút dịch lá làm cho lá bị héo đi. Trên lá nơi nhện tụ tập thường nhìn trên mặt lá thấy những vùng tròn lá bị bạc hơn so với chỗ lá không có nhện và hơi phồng lên nhăn nheo.
+ Nhện trắng (Polyphagotarsonemus latus): Phát sinh chủ yếu ở trong những thời kỳ khô hạn kéo dài và ít ánh sáng (trời âm u hoặc cây bị che bóng bởi các cây khác). Nhện trắng là nguyên nhân chủ yếu gây ra rám quả, các vết màu vàng sáng ở dưới mặt lá.
– Phòng trừ: Để chống nhện (nhện đỏ và nhện trắng) dùng thuốc Comite, Ortus 50EC, Pegasus 250 pha nồng độ 0,1 – 0,2% phun ướt cả mặt dưới lá và phun lúc cây đang ra lộc non để phòng. Nếu đã bị nhện phá hại phải phun kép 2 – 3 lần, mỗi lần cách nhau 5 – 7 ngày bằng những thuốc trên hoặc phố trộn 2 loại với nhau hoặc với dầu khoáng trừ sâu.
Rệp hại:
Chủ yếu hại trên các lá non, cành non, lá bị xoắn rộp lên, rệp tiết nước nhờn khiến lá bị muội đen.
– Đặc điểm gây hại:
+ Rệp cam: Chủ yếu gây hại trên các cành non, lá non. Lá bị xoăn, rộp lên. Rệp tiết ra chất nhờn (gọi là sương mật) hấp dẫn kiến và nấm muội đen.
+ Rệp sáp (Planococcus citri): Trên mình phủ 1 lớp bông hoặc sáp màu trắng, hình gậy, hình vảy ốc, có thể màu hồng hoặc màu xám nâu. Những vườn cam hoặc cây cam ở gần ruộng mía thường hay bị từ mía lan sang.
– Phòng trừ: Dùng Sherpa 25EC hoặc Trebon pha với nồng độ 0,1 – 0,2% phun 1 – 2 lần ở thời kì lá non. Khi xuất hiện rệp, muốn trị có hiệu quả cần pha thêm vào thuốc 1 ít xà phòng để có tác dụng phá lớp sáp phủ trên người rệp làm cho thuốc dễ thấm.
Bệnh hại bưởi
Bệnh loét (Xanthomonas campestris)
Bệnh loét (Xanthomonas campestris) là một bệnh do vi khuẩn gây ra, được nhóm trong nhóm Xanthomonadaceae. Nó thường được tìm thấy ở cây lúa, cây mía, cây bạc hà và nhiều loài cây khác. Bệnh này có thể gây ra tổn thương trực tiếp lên cây trồng hoặc thông qua các thực vật bệnh nhân làm trung gian, khiến cây bị hỏng.
Bệnh loét xuất hiện bằng cách hình thành các tổ chứng bên ngoài như đốm trắng, đốm đen hoặc đốm màu xám trên thân cây. Nếu chúng không được điều trị kịp thời, những đốm này sẽ gây ra các vết thâm hồng, đốm hồng hoặc đốm màu vàng trên thân cây. Các vết thâm này có thể sâu hơn tới cây, khiến cây bị hỏng hoặc bị chết.
Để điều trị bệnh này, nông dân nên sử dụng các phương pháp điều trị hợp lý. Điều đầu tiên là phải đảm bảo rằng khu vực trồng cây được duy trì sạch sẽ. Phân bón hợp lý cũng cần được thực hiện để giữ vệ sinh môi trường thích hợp cho sự phát triển của cây. Ngoài ra, nông dân cũng có thể sử dụng các chất phân trừ hoặc thuốc trừ sâu để điều trị bệnh.
Tóm lại, bệnh loét (Xanthomonas campestris) là một bệnh do vi khuẩn gây ra và thường được tìm thấy ở cây lúa, cây mía, cây bạc hà và nhiều loài cây khác. Bệnh này có thể gây ra nhiều tổn thương, như đốm trắng, đốm đen hoặc đốm màu xám trên thân cây, và các vết thâm hồng, đốm hồng hoặc đốm màu vàng. Để điều trị bệnh này, nông dân cần phải duy trì sạch sẽ khu vực trồng cây, phân bón hợp lý, và sử dụng các chất phân trừ hoặc thuốc trừ sâu.
Bệnh sẹo (Ensinoe fawcetti Bit. et Jenk)
Bệnh sẹo (Ensinoe fawcetti Bit. et Jenk) là một bệnh chỉ có thể nhận diện trên các loài cây trong họ cây ép. Đây là một bệnh lây truyền từ cây ép đang trồng đến các cây ép khác. Bệnh này có thể ảnh hưởng đến chất lượng cây ép, khiến cho nó trở nên hư hỏng và còn có thể gây thiệt hại trong quá trình trồng cây.
Hầu hết các cây ép bị bệnh sẹo sẽ mọc ra một loại các tia lớn. Tia này có thể là trắng, vàng hoặc màu đỏ. Tia này có thể đạt đến kích thước lớn nhất là 2 cm. Tia này sẽ gây ra những vết sẹo trên các lá và thân cây. Tia sẽ gây ra những vết mờ và có thể làm mờ và bị tổn thương lên cây.
Ngoài ra, bệnh này cũng có thể gây ra các vết sẹo trên trái cây. Khi trái cây đã bị tổn thương, nó sẽ thực sự không thể được tiêu thụ. Nếu những trái cây này được tiêu thụ, nó có thể gây ra những cơn đau đớn nội tiết, cảm giác đau đớn trong bụng, động kinh và cảm giác đỗ mồ hôi không thể giải quyết.
Để phòng ngừa bệnh sẹo, cần phải đảm bảo rằng cây ép đang trồng được duy trì trong tình trạng khỏe mạnh. Ngoài ra, cũng cần đảm bảo rằng những cây ép khác đang được trồng trong khoảng cách an toàn và không được tiếp xúc với cây ép đang bị bệnh. Ngoài ra, sử dụng thuốc trừ sâu có thể giúp giảm các giai đoạn trung gian của chu trình lây truyền bệnh, giúp ngăn chặn bệnh lan ra và giảm thiểu tổn thương.
Bệnh chảy gôm (Phytophthora citriphora):
Bệnh chảy gôm, còn được biết đến với tên khoa học là Phytophthora citriphora, là một loại bệnh thường gặp ở cây trái có da như táo, le, mận, nho và một số loại cây quả khác. Bệnh được gây bởi một chủng vi-rút thuộc gia đình Oomycetes. Khi tồn tại trong cây, bệnh chảy gôm sẽ gây ra một số biểu hiện như ẩm ướt và hằn lên lá, trầy xước trên lá, sự bí mật của lá, và sự sụp đổ của lá.
Để chữa trị bệnh chảy gôm, cần có sự trị liệu bằng các loại thuốc nhuộm và thuốc trừ sâu để phòng tránh sự lây lan của bệnh. Người canh bảo cũng cần chăm sóc cây bị bệnh và phải loại bỏ những bộ phận bị bệnh trong thời gian sớm nhất có thể, ví dụ như cắt bỏ các rễ bị bệnh và đẩy lùi lợi mùa cây. Ngoài ra, hệ thống thuốc trừ bệnh có thể được sử dụng bổ sung với các biện pháp chăm sóc cây để giảm sự lan rộng của bệnh.
Tuy nhiên, để đảm bảo hiệu quả của việc điều trị bệnh chảy gôm, ngoài việc trị liệu và chăm sóc cây, cần có sự tránh xa của những cây bị bệnh và cây lây nhiễm bệnh. Phương pháp này sẽ giúp ngăn chặn sự lây lan của bệnh và giúp cây trái có thể sống lâu hơn, đảm bảo sản phẩm thực phẩm an toàn để người tiêu dùng.
Bệnh Greening:
– Đặc điểm gây hại: Cây có múi nói chung và bưởi nói riêng có thể nhiễm bệnh Greening vào bất kỳ giai đoạn nào từ thời kỳ vườn ươm tới khi cây 10 năm tuổi. Tuy nhiên, bưởi ít nhiễm bệnh Greening hơn các giống cam quýt khác. Triệu chứng cho thấy: trước khi những lá non trở thành mầu xanh thì trở nên vàng, cứng lại và mất mầu.
Mô giữa các gân lá chuyển xanh vàng hoặc hơi vàng và có đường vân. Đầu tiên các đọt và lá non bị bệnh sâu đó có thể biểu hiện trên cả tán. Cùng thời gian đó lá xanh và lá già chuyển xang mầu vàng từ sống lá và gân lá. Các lá bị nhiễm bệnh có thể bị rụng sớm, trong một vài tháng hoặc và năm tất cả các cành cây bị khô đi và tàn lụi.